Nước Anh UGM-27 Polaris

Bài chi tiết: UK Polaris programme
Tên lửa Polaris, bảo tàng chiến tranh Hoàng gia, London

Ngay từ những ngày đầu phát triển Polaris, các thượng nghị sĩ và sĩ quan hải quân Mỹ đã gợi ý rằng Vương quốc Anh có thể được trang bị Polaris. Năm 1957, Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ Arleigh Burke và Tham mưu trưởng Hải quân Anh Louis Mountbatten kí kết thỏa thuận để Anh cũng tham gia phát triển Polaris. Sau khi chương trình tên lửa Blue StreakSkybolt bị hủy bỏ vào những năm 60. Theo Thỏa thuận Nassau năm 1962 đạt được trong cuộc họp giữa Harold MacmillanJohn F. Kennedy, Mỹ sẽ cung cấp cho Anh tên lửa Polaris, ống phóng, Re-B và hệ thống điều khiển-hỏa lực. Người Anh sẽ tự chế tạo đầu đạn và ban đầu dự định đóng 5 tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, sau đó Đảng Lao động của Harold Wilson giảm xuống còn 4 chiếc, với mỗi tàu ngầm sẽ trang bị 16 tên lửa.

tên lửa mẫu dùng để huấn luyện trưng bày tại Bảo tàng quốc gia Scotland, East Fortune

Đổi lại, Anh đồng ý giao quyền kiểm soát việc sử dụng tên lửa Polaris của họ cho SACEUR (Bộ chỉ huy tối cao của quân Đồng minh khu vực Châu u), với điều khoản là trong trường hợp khẩn cấp mà không được các đồng minh NATO hỗ trợ, Anh sẽ có quyền sử dụng tên lửa Polaris. Thủ tướng Anh là người có quyền quyết định trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân của Anh, bao gồm cả tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm SLBM.

Việc kiểm soát hoạt động của các tàu ngầm mang tên lửa Polaris được giao cho SACLANT (Bộ chỉ huy tối cao của quân Đồng minh khu vực Đại Tây Dương), có trụ sở gần Norfolk, Virginia, mặc dù SACLANT thường giao quyền kiểm soát tên lửa cho phó chỉ huy COMEASTLANT, người luôn là đô đốc người Anh.

Dự án phát triển Polaris là dự án quân sự lớn nhất của Hải quân Hoàng gia Anh trong thời bình. Năm 1964, đảng Lao động lên nắm chính quyền Anh và đã cân nhắc rút khỏi chương trình Polaris tuy nhiên cuối cùng Anh cũng vẫn tham gia chương trình do việc trang bị Polaris sẽ làm cho Anh có năng lực răn đe hạt nhân trên phạm vi toàn cầu, tiết kiệm hơn so với lực lượng máy bay ném bom chiến lược. Dự án phát triển Polaris cho quân đội Anh hoàn thành đúng thời hạn và không vượt quá ngân sách cho phép. Ngày 15 tháng 2 năm 1968, HMS Resolution, con tàu đầu tiên thuộc lớp Resolution, trở thành tàu đầu tiên của Anh phóng thử nghiệm Polaris. Tất cả các tàu ngầm mang tên lửa hạt nhân SSBN của Hải quân Hoàng gia Anh đều đóng tại Faslane. Mặc dù một chiếc tàu ngầm trong số bốn chiếc luôn ở trong xưởng đóng tàu để tiến hành tái trang bị và dự bị, nhưng việc giải mật các hồ sơ lưu trữ gần đây tiết lộ rằng Hải quân Hoàng gia đã triển khai bốn tàu chở đầu đạn hồi quyển, cộng với đầu đạn dự phòng cho tên lửa Polaris A3T, duy trì khả năng tái trang bị hạn chế. Do vậy cả 4 tàu ngầm mang tên lửa liên lục địa của Anh đều có thể duy trì ở trạng thái trực chiến. Khi đưa vào trang bị đầu đạn Chevaline, tàu vận chuyển đạn dược hậu cần đã giảm còn 3 tàu.

Chevaline

Một tên lửa Polaris được phóng từ tàu ngầm HMS Revenge vào năm 1986

Phiên bản ban đầu Polaris của Hải quân Mỹ không được thiết kế để xuyên thủng hệ thống tên lửa phòng thủ chống tên lửa đạn đạo, nhưng Hải quân hoàng gia Anh do có ít tên lửa/tàu ngầm SSBN hơn, do đó, thường chỉ hoạt động nhỏ lẻ và thường chỉ có 1 tàu ngầm làm nhiệm vụ tuần tra răn đe, nên khả năng xuyên thủng hệ thống phòng thủ ABM là rất quan trọng. Tàu ngầm của Anh được trang bị tên lửa Polaris A3T-một phiên bản nâng cấp từ mẫu Polaris được Hải quân Mỹ sử dụng từ năm 1968 đến năm 1972. Người Mỹ đã tiến hành những nâng cấp tương tự nhưng muộn hơn người Anh.[23]

Chương trình sửa đổi tên lửa Polaris được đặt tên là Antelope. Trong khuôn khổ chương trình này người ta đã tìm cách tăng khả năng triển khai và khả năng xâm nhập bầu khí quyển của đầu đạn. Hải quân Anh đã thực hiện các đánh giá tên lửa sau khi sửa đổi tại Aldermaston, kết quả là Anh đã thực hiện chương trình nâng cấp theo sau của Mỹ.

Kết quả là chương trình có tên Chevaline ra đời, nâng cấp thêm nhiều mồi nhử, chaff, và các biện pháp đánh lừa khác. Sự tồn tại của chương trình chỉ được tiết lộ vào năm 1980, vì chi phí vượt quá so với ngân sách, đồng thời cố vấn khoa học của Đảng Lao động cầm quyền cho rằng nước Anh không còn cần phải trang bị thêm vũ khí hạt nhân và sẽ không cần thiết phải thử nghiệm đầu đạn hạt nhân nữa. Mặc dù vậy chương trình Chevaline vẫn tìm được những người ủng hộ. Một trong những người ủng hộ việc sửa đổi Polaris là Bộ trưởng Quốc phòng Denis Healey.

Tuy nhiên các khoản chi phí dành cho chương trình tăng quá lớn đã là rào cản khiến Anh phải hủy bỏ chương trình sửa đổi Polaris vào năm 1977. Hệ thống tên lửa Polaris sau khi sửa đổi bắt đầu hoạt động vào giữa năm 1982, trang bị trên tàu ngầm HMS Renown, và tàu ngầm cuối cùng của Hải quân Anh được trang bị tên lửa Polaris sửa đổi là vào giữa năm 1987.[24] Chevaline đã được rút khỏi trang bị vào năm 1996.

Thay thế

Nước Anh không gia hạn thỏa thuận để mua tên lửa Polaris do vấn đề về chi phí.[25] Bộ quốc phòng Anh đã nâng cấp kho tên lửa của mình với tên lửa Trident có tầm bắn xa hơn, sau khi xảy ra nhiều tranh cãi về chính trị với Đảng Lao động của thủ tướng James Callaghan về vấn đề chi phí và liệu có cần trang bị tên lửa đạn đạo SLBM. Thủ tướng James Callaghan sắp mãn nhiệm đã giải trình các tài liệu về tên lửa Trident cho chính phủ mới Đảng bảo thủ của thủ tướng Margaret Thatcher, chính phủ mà sau này quyết định mua tên lửa Trident C4.

Sau đó chính phủ Anh quyết định mua tên lửa Trident D5 thậm chí còn lớn hơn, tầm bắn xa hơn tương đồng với loại tên lửa Hải quân Hoa Kỳ trang bị, điều này rất quan trọng khi các tàu ngầm mang Trident của Hải quân Hoàng gia Anh cũng sử dụng căn cứ tàu ngầm Kings Bay. Do đó giảm gánh nặng về hậu cần. Mặc dù Hải quân Hoa Kỳ ban đầu trang bị tên lửa Trident C4 trên các tàu ngầm lớp Ohio nhưng cuối cùng đã nâng cấp tất cả tên lửa lên Trident D5.

Sau khi Hải quân Mỹ loại biên tên lửa Trident từ năm 1980-1981, Hải quân Anh vẫn còn tiếp tục sử dụng tên lửa Trident